Chủ nhà được phép áp dụng mức tăng tiền thuê không giới hạn theo Quy định và Điều lệ Mục 1.21 khi không có người thuê nào cư trú tại đơn vị cho thuê. Trước tiên, chủ nhà phải nộp đơn lên Hội đồng Thuê nhà để xin xác định rằng không có người thuê nào cư trú trước khi ban hành thông báo tăng tiền thuê trên cơ sở đó. Thông báo chỉ có thể được gửi sau khi đơn được nộp hoặc chủ nhà có thể đợi cho đến khi Hội đồng Thuê nhà ra quyết định. Nếu thông báo được gửi trước khi đơn được nộp, thông báo sẽ vô hiệu và không thể là cơ sở để tăng tiền thuê hợp pháp. Nếu thông báo được gửi đúng cách sau khi đơn được nộp, mức tăng tiền thuê sẽ không có hiệu lực cho đến khi Hội đồng Thuê nhà ra quyết định xác định rằng không có người thuê nào cư trú. Tuy nhiên, nếu đơn được chấp thuận, bất kỳ khoản tiền nào phải trả sẽ có hiệu lực ngược lại đến ngày có hiệu lực của thông báo tăng hợp lệ.
Người thuê nhà đang cư trú là người thực sự cư trú tại đơn vị cho thuê như là "nơi cư trú chính" của mình và có quyền theo thỏa thuận bằng văn bản hoặc bằng miệng, hợp đồng thuê lại được chủ nhà chấp thuận hoặc theo sự cho phép, được cư trú tại đơn vị mà không có người khác. Việc cư trú không yêu cầu cá nhân phải có mặt tại đơn vị mọi lúc hoặc liên tục, nhưng đơn vị phải là nơi thường xuyên trở về của người thuê nhà. Khi xem xét liệu người thuê nhà có cư trú tại đơn vị cho thuê như là "nơi cư trú chính" của mình hay không, Hội đồng Thuê nhà sẽ xem xét toàn bộ các tình huống, bao gồm nhưng không giới hạn ở các yếu tố sau:
(1) liệu cơ sở liên quan có được liệt kê là nơi cư trú của cá nhân trên bất kỳ giấy đăng ký xe cơ giới, giấy phép lái xe, giấy đăng ký cử tri hay với bất kỳ cơ quan công cộng nào khác, bao gồm cơ quan thuế Liên bang, Tiểu bang và địa phương hay không;
(2) liệu tiện ích có được lập hóa đơn và thanh toán bởi cá nhân tại cơ sở liên quan hay không;
(3) liệu tất cả tài sản cá nhân của cá nhân đó đã được chuyển vào cơ sở liên quan hay chưa;
(4) liệu miễn thuế chủ nhà cho cá nhân đã được nộp cho một tài sản khác hay chưa;
(5) liệu cơ sở có phải là nơi cá nhân thường trở về như nhà của mình hay không, không bao gồm nghĩa vụ quân sự, nhập viện, nghỉ phép, trường hợp khẩn cấp của gia đình, đi lại do công việc hoặc giáo dục, hoặc các khoảng thời gian vắng mặt tạm thời hợp lý khác; và/hoặc
(6) có lời khai đáng tin cậy từ những cá nhân có hiểu biết cá nhân hay bằng chứng đáng tin cậy khác rằng người thuê nhà thực sự sử dụng đơn vị cho thuê làm nơi cư trú chính của mình hay không.
Việc biên soạn các yếu tố này mang lại độ tin cậy cao hơn cho việc tìm ra "nơi cư trú chính" trong khi sự hiện diện của chỉ một yếu tố có thể không hỗ trợ cho việc tìm ra như vậy. Người thuê nhà có thể chiếm giữ hai hoặc nhiều đơn vị cho thuê gần nhau trong cùng một tòa nhà với nơi cư trú chính của mình.
Mục 1.21 không áp dụng nếu bất kỳ người đồng thuê hoặc người thuê phụ được chấp thuận nào đáp ứng định nghĩa về "người thuê" trong Sắc lệnh Thuê nhà và cư trú tại đơn vị như nơi cư trú chính của người đó. Trong những tình huống như vậy, việc tăng tiền thuê không giới hạn sẽ không được chấp thuận ngay cả khi đơn vị không phải là nơi cư trú chính của người thuê ban đầu. Trong những trường hợp như vậy, chủ nhà có thể tăng tiền thuê theo Đạo luật Nhà ở cho thuê Costa-Hawkins và/hoặc Quy định và Điều lệ Mục 6.14.
Đơn xin theo Mục 1.21 phải được nộp theo mẫu do Hội đồng Thuê nhà cung cấp và phải kèm theo tuyên bố rằng không có người thuê nào khác đang cư trú tại căn hộ và giải thích lý do tại sao chủ nhà tin rằng căn hộ liên quan không phải là nơi cư trú chính của người thuê. Để nhận bản sao của mẫu Đơn xin theo Mục 1.21, hãy nhấp vào đây hoặc truy cập Trung tâm Biểu mẫu trên trang web của chúng tôi. Mẫu này cũng có sẵn tại văn phòng của chúng tôi.
Thẻ: Chủ đề 328